Tổng hợp các thể loại thơ trong Văn học Việt Nam tiêu biểu

Học là Giỏi tổng hợp các thể loại thơ tiêu biểu trong Văn học Việt Nam, giúp bạn tự tin giải câu hỏi trong đề thi đánh giá năng lực và THPT Quốc gia.

Trong các đề thi đánh giá năng lực hay đề thi THPT Quốc gia sẽ thường hay xuất hiện câu hỏi về các thể loại thơ. Gặp câu hỏi như vậy, các bạn sẽ rất tự tin nhưng bên cạnh đó thì một số bạn cũng băn khoăn không biết cách xác định thể loại thơ là như thế nào cho nên Học là Giỏi sẽ gỡ rối những băn khoăn đó cho các bạn thông qua bài viết sau đây: Tổng hợp các thể loại thơ trong Văn học Việt Nam tiêu biểu.

Thể loại thơ là gì?

Thơ là hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp từ được sắp xếp dưới hình thức logic nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mĩ cho người đọc, người nghe. Cách cấu trúc, sự sắp xếp từ ngữ trong một câu và số lượng câu trong một bài tạo thành các thể loại thơ khác nhau.

Các thể loại thơ trong Văn học Việt Nam

Các thể loại thơ trong Văn học Việt Nam

Văn học Việt Nam có nhiều thể thơ phong phú, từ lục bát truyền thống đến thơ tự do cách tân. Mỗi thể loại mang sắc thái riêng, phản ánh tinh thần dân tộc qua từng vần điệu! Dưới đây là các thể loại thơ tiêu biểu:

Thơ Lục bát

Thơ lục bát là một trong thể thơ đặc sắc của dân tộc. Thơ lục bát có mặt trong hầu hết các làn điệu dân ca, ca dao, với sức sống lâu bền và phát triển liên tục.

Cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng và một câu 8 tiếng.

Thơ lục bát tuân thủ về thanh và vần rất nghiêm ngặt. Thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hòa. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Một số chú ý về luật gieo vần và thanh

Tiếng cuối của câu trên (tức câu 6) phải vần (đồng thanh) với chữ thứ sáu của câu dưới (tức câu 8). Đặc biệt chữ thứ tư của câu 6 và chữ thứ bảy của câu 8 thường gieo ở vần trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dẫu ngã, hoặc dấu nặng, ký hiệu của tắc là T).

Ví dụ:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

                                              (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
 

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì gặp người tiên độ trì

Mang theo truyện cổ tôi đi

Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa.”

                                                                         (Trích Truyện cổ nước mình - Lâm Thị Mỹ Dạ)

Thể song thất lục bát

Thơ song thất lục bát cũng là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam sáng tạo. Cấu trúc của nó gồm có 2 câu 7 chữ liền nhau, tiếp sau đó là một cặp lục – bát. Thể thơ này phổ biến hơn trong văn học trung đại.

Một số chú ý về luật gieo vần, nhịp và thanh

Số tiếng: cặp song thất và cặp lục bát luân phiên kế tiếp nhau trong toàn bài.

Vần: hiệp vần ở mỗi cặp, cặp song thất có vần trắc, cặp lục bát có vần bằng. Giữa cặp song thất và cặp lục bát có vần liên (vần được gieo liên tiếp ở các dòng thơ).

Nhịp: 3/4 ở hai câu thất và 2/2/2 ở cặp lục bát.

Hài thanh: Cặp song thất lấy tiếng thứ ba làm chuẩn, có thể có thanh bằng hoặc trắc nhưng không bắt buộc; cặp lục bát có sự đối xứng B-T chặt chẽ hơn.

Ví dụ:

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

Thành liền mong tiến bệ rồng,

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Giã nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,

Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền".

                                                                                (Trích Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm)

Thơ Đường luật

Thơ Đường luật là thơ làm theo thi luật đặt ra từ đời nhà Đường của Trung Hoa (618-907). Kế thừa tinh hoa của thể thơ này, khi du nhập vào Việt Nam, ông cha ta đã kết hợp với yếu tố thuần Việt. Một số thể thơ Đường luật tiêu biểu phải kể đến là: thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú.

a. Thơ thất ngôn tứ tuyệt

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu có 7 chữ, trong đó các câu 1,2, 4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.

Ví dụ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

                                           (Nam quốc sơn hà - Lý Thường Kiệt)

b. Thơ thất ngôn bát cú

Thể thơ thất ngôn bát cú có 4 phần: đề, thực, luận, kết.

Đề: Câu 1,2 nêu được “cái thần” của bài thơ và từ trong đề đã hàm ý các phần tiếp theo.

Thực: Câu 3,4 đối nhau có nhiệm vụ triển khai ý tứ của đề.

Luận: Câu 5,6 cũng đối nhau có nhiệm vụ bình luận, nhận định.

Kết: Câu 7,8 với chức năng khép bài nhưng thường không khép kín mà có khi gợi ra một ý mới.

Ví dụ:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

                                   (Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Các thể loại thơ khác

Ngoài các thơ kể trên trong văn học Việt Nam cũng có nhưng thể thơ khác mang tính đặc chưng của thời đại. Dưới đây là một số loại thơ tiêu biểu:

a. Thơ 4 chữ

Thể thơ này mỗi câu có 4 chữ, không có quy định về số câu trong bài. Thơ 4 chữ thường thấy trong các bài vè, đồng dao, ca dao, tục ngữ; phù hợp với việc sáng tác thơ cho trẻ em do dễ đọc, dễ nhớ; nội dung vui tươi, câu thơ ngắn, gieo vần nhịp nhàng.

Ví dụ:

Ve vẻ vè ve,

Cái vè nói ngược.

Non cao đầy nước,

Đáy biển đầy cây.

Dưới đất lắm mây,

Trên trời lắm cỏ.

Người thì có mỏ,

Chim thì có mồm.

Thẳng như lưng tôm,

Cong như cán cuốc.

(Đồng dao)
 

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh
 

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng…

(Lượm - Tố Hữu)

b. Thơ 5 chữ (Thơ ngũ ngôn)

Cái tên đã cho biết thể thơ này gồm mỗi câu thơ có 5 chữ, không có quy định về số câu trong bài.

Thơ 5 chữ có phần đi vào chiều sâu suy tư hơn thơ 4 chữ.

Nhịp thơ chủ yếu là 3/2 hoặc 2/3.

Thể thơ này chủ yếu có trong những sáng tác thơ mới và thơ hiện đại.

Để biết cách làm thơ 5 chữ, bạn có thể tham khảo cẩm nang sáng tác thể thơ năm chữ cho người mới bắt đầu để nắm được quy tắc cơ bản của thể thơ này nhé.

Ví dụ:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể.

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

(Sóng - Xuân Quỳnh)
 

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

(Ánh trăng - Nguyễn Duy)

c. Thể thơ sáu chữ

Thể thơ này gồm mỗi câu thơ có 6 chữ, cách gieo vần chéo hoặc vần ôm.

Ví dụ:

“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay”

                                  (Quê hương – Đỗ Trung Quân)

d. Thể thơ bảy chữ

thơ 7 chữ một trong các thể thơ trong văn học việt nam

Tương tự như trên, thể thơ 7 chữ gồm các câu có 7 chữ và trong bài không hạn chế về số lượng câu.

Ví dụ:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng

                     (Tràng giang – Huy Cận)

e. Thể thơ tám chữ

Thể thơ này gồm các câu có 8 chữ, bài thơ thường sẽ không giới hạn về số lượng câu.

Quy luật bằng trắc: Tiếng cuối với tiếng thứ 3 gồm vần trắng thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng và ngược lại.

Cách gieo vần: vần ôm, vần chéo và vần tiếp

Ví dụ:

Mặt trời lên! Sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà

Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.

(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm)

g. Thơ tự do

Thơ tự do là kiểu thơ phá cách, ngòi bút được phóng túng, thơ không theo một luật lệ, vần điệu nào nhất định.

Số chữ trong câu thơ tự do không hạn định, số câu cũng không hạn định.

Cách biểu thị mới, cách dùng từ mới lạ, mang tính cách tân sâu sắc.

Ví dụ:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

                              (Đồng chí - Chính Hữu)
 

Bài viết trên đây tổng hợp các thể loại thơ trong văn học Việt Nam, Học là Giỏi hi vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các bạn ôn luyện thật tốt. Đừng quên theo dõi các bài viết tiếp theo và cập nhật những kiến thức liên quan khác. Chúc bạn thành công!

Admin

Link nội dung: https://rolandroicalculator.eu/tong-hop-cac-the-loai-tho-trong-van-hoc-viet-nam-tieu-bieu-1734345010-a2068.html